Mô hình tố tụng thẩm vấn truyền thống của Việt Nam- Nguyên tắc đánh giá chứng cứ

Tác giả: Lê Tuấn Hải Đăng ngày: 08/10/2020 Lượt xem: 795 Danh mục: Luật sư tố tụng

     I. Cơ sở pháp lý

  • Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
  • Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
  • Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003;
  • Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004;

     II. Nội dung

  1. Khái niệm chứng cứ

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, chứng cứ luôn được xem là phương tiện của việc chứng minh. Xâu chuỗi, tổng hợp toàn bộ các hoạt động: thu thập, cung cấp, bảo quản, nghiên cứu, đáng giá, tổng hợp, sử dụng chứng cứ sẽ là cơ sở quan trọng, căn cứ quyết định để xác định sự thật khách quan, đưa đến kết luận khẳng định hoặc phủ định sự việc có hay không diễn ra trên thực tế? Và qua đó nhằm đảo bảo mục đích đề ra của pháp luật hình sự: xử lý đúng người đúng tội, khách quan, công bằng.

Khái niệm “Chứng cứ” trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã tiếp tục kế thừa nội dung của các bộ luật trước đó, quy định cụ thể tại Điều 86 như sau:

“Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.”

  1. Nguyên tắc loại trừ chứng cứ

Xét về chế định “chứng minh”, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có một điểm mới đáng chú ý trong“Quy tắc loại trừ chứng cứ” mà bộ luật cũ không quy định. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 87 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định nội dung như sau:

“Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”

Quy định trên được xem chính là “Quy tắc loại trừ chứng cứ” mà căn cứ vào đó, chúng ta có thể khẳng định: Ngoài việc phải đảm bảo tính “có thật” thì chỉ được coi là chứng cứ trong vụ án hình sự khi đã đáp ứng tính “hợp pháp”, tức đảm bảo tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục; chỉ cần việc thu thập không tuân theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì đương nhiên đó không được xem là chứng cứ trong vụ án.

  1. Các yếu tố để kiểm tra, đánh giá chứng cứ

Việc kiểm tra đánh giá chứng cứ tập trung vào ba yếu tố: tính khách quan, tính liên quan, và tính hợp pháp.

Cụ thể hơn:

Tính khách quan có nghĩa là chứng cứ phải có thật;

Tính liên quan có nghĩa là chứng cứ phải chứa đựng thông tin liên quan đến các vấn đề cần phải chứng minh của vụ án;

Tính hợp pháp có nghĩa là chứng cứ phải được thu thập theo trình tự, thủ tục do luật định.

Như vậy, trước khi được quy định nguyên tắc loại trừ chứng cứ tại Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì các bộ luật Tố tụng trước đó đã thừa nhận nguyên tắc này trong việc đánh giá tính hợp pháp của đánh giá chứng cứ.